ĐỘT QUỴ - VÀ NHỮNG ĐIỀU NÊN CHÚ Ý

1. ĐỊNH NGHĨA VỀ ĐỘT QUỴ

Đột quỵ là tình trạng tổn thương tại não xảy ra khi dòng máu cung cấp cho não bị gián đoạn hoặc giảm đáng kể. Não bị thiếu ô-xy và dinh dưỡng và các tế bào não bắt đầu chết trong vòng vài phút. Vì lý do đó, đột quỵ được coi là một tình huống cấp cứu y tế và cần có chẩn đoán và điều trị kịp thời.

Đột quỵ, còn được gọi là “tai biến mạch máu não”, là nguyên nhân hàng đầu của tàn tật và tử vong trên toàn thế giới. Gần 800.000 người Mỹ bị đột quỵ hàng năm—xấp xỉ 137.000 người trong số đó tử vong và cuộc sống của những người sống sót thay đổi mãi mãi. Người bị đột quỵ cần được cấp cứu ngay lập tức, thời gian kéo dài càng lâu, số lượng tế bào não chết càng nhiều sẽ ảnh hưởng lớn tới khả năng vận động và tư duy của cơ thể, thậm chí là tử vong. Hầu hết những người sống sót sau cơn đột quỵ đều có sức khỏe suy yếu hoặc mắc các di chứng như: tê liệt hoặc cử động yếu một phần cơ thể, mất ngôn ngữ, rối loạn cảm xúc, thị giác suy giảm...

2. CÁC LOẠI ĐỘT QUỴ

Đột quỵ do thiếu máu cục bộ: Gây ra bởi tắc nghẽn trong động mạch, chiếm khoảng 85% số ca đột quỵ. Mặc dù có những đánh giá trên diện rộng, nhiều cơn đột quỵ thuộc dạng này vẫn còn chưa rõ nguyên nhân. May mắn thay, các liệu pháp dự phòng có hiệu quả cho tất cả các loại đột quỵ do thiếu máu cục bộ. Các loại đột quỵ do thiếu máu cục bộ phổ biến là:
Đột quỵ do huyết khối: Một cục máu đông (huyết khối) hình thành trong một động mạch ở cổ hoặc não. Những động mạch này có thể có tích tụ chất béo, gọi là các mảng bám.
Đột quỵ do tắc mạch: Tắc nghẽn bởi các cục máu đông hình thành ở đâu đó trong cơ thể (thường là tim) và di chuyển đến não. Nguồn phổ biến thường là nhịp bất thường ở hai buồng phía trên của tim (rung tâm nhĩ), có thể làm hình thành cục máu đông.
Đột quỵ do xuất huyết: Xuất huyết có nghĩa là chảy máu. Loại đột quỵ này được gây ra bởi sự rò rỉ hoặc vết nứt trên một động mạch não hoặc trên bề mặt não. Những vết nứt này có thể là do phình mạch (một khu vực mỏng, yếu trên thành động mạch) hoặc bởi sự dị dạng của hệ thống mạch máu não. Xuất huyết có thể xuất hiện ở trong não, hoặc trong khoảng không giữa não và lớp bảo vệ bên ngoài của nó. Khoảng 15% trường hợp đột quỵ là do xuất huyết.
Cơn thiếu máu não thoáng qua (TIA): Thường gọi là đột quỵ nhỏ, TIA thực chất là những giai đoạn ngắn có triệu chứng của đột quỵ, thường chỉ kéo dài vài phút. TIA được gây ra bởi sự giảm tạm thời dòng máu cung cấp cho một phần của não, và không gây ra tác dụng rõ rệt lâu dài. Nhưng TIA được coi là dấu hiệu cảnh báo nguy cơ đột quỵ cao hơn, và cần được thăm khám y khoa sớm. 

3. TRIỆU CHỨNG
Các dấu hiệu cảnh báo của đột quỵ và TIA giống nhau, và bao gồm sự xuất hiện đột ngột và ngắt quãng của:

  • Tê liệt cấp tính, ốm yếu hoặc tê cứng mặt, cánh tay hoặc chân, đặc biệt là một bên của cơ thể. Nếu bạn không thể nâng hai tay qua đầu cùng một lúc, hoặc nếu bạn không thể cười một cách bình thường, bạn có thể đang bị đột quỵ.
  • Mất thăng bằng đột ngột, chóng mặt, mất phối hợp.
  • Mờ mắt hoặc giảm thị lực ở một hoặc cả hai mắt đột ngột, hoặc nhìn đôi.
  • Lú lẫn đột ngột, khó nói hoặc không hiểu các câu đơn giản. Nếu bạn không thể nhắc lại một câu đơn giản, bạn có thể đang bị đột quỵ.
  • Đau đầu khu trú nghiêm trọng, không giải thích được và xuất hiện nhanh; có thể kèm theo nôn mửa.
  • Có nguy cơ đột quỵ cao hơn nếu thấy xuất hiệu nhiều hơn một trong các dấu hiệu này. Tuy nhiên, có nhiều tình trạng khác có thể giống đột quỵ, và cần phải có một chuyên gia y tế xác định nguyên nhân của các triệu chứng này. Việc học cách nhận biết các dấu hiệu này là quan trọng, và nếu có thể, chú ý ngay khi chúng bắt đầu. Mặc dù chúng có thể không gây đau và thậm chí qua đi nhanh chóng, chúng là những dấu hiệu cảnh báo rõ ràng rằng một cơn đột quỵ đã xảy ra hoặc có thể sắp xuất hiện. Mỗi phút đều có ý nghĩa: bạn được điều trị càng sớm (lý tưởng là trong vòng 60 phút), nguy cơ xuất hiện tổn thương vinh viễn càng giảm. Nếu bạn thấy có bất kỳ dấu hiệu cảnh báo đột quỵ nào, liên hệ với bác sỹ hoặc người chăm sóc sức khỏe của bạn, đi đến phòng cấp cứu 

4. Chẩn đoán
Việc xác định đúng nguyên nhân căn bản và vị trí của đột quỵ sẽ quyết định việc điều trị. Công nghệ y tế tiên tiến đã làm tăng rõ rệt khả năng chẩn đoán chính xác đột quỵ và đánh giá tổn thương đến não bộ. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng dễ nhận biết các cơn đột quỵ nhỏ vì triệu chứng có thể bị bỏ qua bởi bệnh nhân và gia đình do hiểu nhầm đó là do lão hóa, hoặc có thể bị nhầm lẫn với các triệu chứng của các bệnh thần kinh khác. Như đã lưu ý ở trên, bất kỳ dấu hiệu cảnh báo đột quỵ nào cần cũng cần phải đánh giá y tế ngay lập tức. Như là các chuyên gia y tế sẽ nói với bạn, “càng mất nhiều thời gian, tổn thương não càng nghiêm trọng hơn”.

5. Các yếu tố nguy cơ

Nhiều yếu tố nguy cơ khiến một người dễ bị đột quỵ hơn. Các nguy cơ này bao gồm các  yếu tố có thể kiểm soát được (những điều bạn có thể thay đổi) và không thể kiểm soát được (những điều bạn không thể thay đổi). Tin tốt là có thể phòng tránh được hơn một nửa số loại đột quỵ bằng chăm sóc y tế và thay đổi lối sống.

Chứng tăng huyết áp (cao huyết áp): Nguy cơ đột quỵ bắt đầu tăng khi huyết áp duy trì ở trên mức 115/75. Cao huyết áp, nguyên nhân hàng đầu của đột quỵ, làm tổn thương thành động mạch và có thể làm tăng hoạt động đông máu, dẫn đến sự hình thành các cục máu đông gây đột quỵ. Do cao huyết áp có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ hai đến sáu lần, kiểm soát huyết áp giúp giảm nguy cơ đáng kể. Có sẵn một số thuốc giúp kiểm soát cao huyết áp.
Hút thuốc: Hút thuốc làm tăng gấp đôi nguy cơ đột quỵ. Bên cạnh việc gây hại cho phổi, hút thuốc cũng làm tổn thương thành mạch máu, làm tăng quá trình xơ cứng động mạch, khiến tim làm việc nhiều hơn và làm tăng huyết áp. Phơi nhiễm với hút thuốc thụ động cũng làm tăng nguy cơ đột quỵ. Tin tốt là, nếu bạn dừng hút thuốc hôm nay, trong vòng hai đến năm năm, nguy cơ đột quỵ của bạn sẽ ngang với người chưa bao giờ hút thuốc.
Cholesterol cao và thừa cân: Mức cholesterol từ 200 trở xuống là tốt nhất cho người trưởng thành. Cholesterol thừa có thể tích tụ trên thành động mạch và dẫn đến tắc những mạch này. Thừa cân làm quá tải toàn bộ hệ tuần hoàn và mở đường cho các yếu tố nguy cơ khác của đột quỵ, như là cao huyết áp. Lối sống ngồi yên ít vận động làm gia tăng nguy cơ. Uống các thuốc statin làm giảm cholesterol có thể giảm nguy cơ đột quỵ.


Với các yếu tố ngoại cảnh dưới đấy, có thể giảm thiểu ảnh hưởng của chúng lên nguy cơ đột quỵ chung bằng cách tập trung vào các yếu tố có thể kiểm soát được ở trên.

Tuổi tác: Mặc dù người trẻ tuổi có thể bị đột quỵ, nguy cơ đột quỵ tăng gấp đôi mỗi 10 năm kể từ tuổi 55.
Giới tính: Nam giới có nguy cơ đột quỵ cao hơn một chút so với nữ giới.
Chủng tộc: Người Mỹ gốc Phi có nguy cơ đột quỵ cao hơn gần gấp đôi so với người da trắng.
Tiền sử gia đình: Bạn có nguy cơ bị đột quỵ cao hơn nếu gia đình có người từng bị đột quỵ.
Đái tháo đường: Các vấn đề về tuần hoàn liên quan đến đái tháo đường có thể tăng nguy cơ đột quỵ thậm chí là khi mức đường huyết và insulin được kiểm soát chặt chẽ.
Bệnh tim mạch: Bị đau tim có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ của bạn. Một yếu tố nguy cơ bổ sung là một bất thường ở tim được gọi là rung tâm nhĩ (AF), một loại bất thường nhịp tim đặc biệt ảnh hưởng đến trên một triệu người Mỹ. Thông thường, cả bốn buồng tim của trái tim đập theo cùng một nhịp, khoảng 60 đến 100 lần một phút. Ở người bị AF, tâm nhĩ trái có thể đập nhanh và không kiểm soát được lên đến 400 lần một phút. Nếu không được điều trị, AF có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ của bạn từ 4 đến 6 lần. Thuốc có thể giúp điều trị tình trạng này.
Đột quỵ tái phát: Một người có tiền sử đột quỵ có nguy cơ cao bị một lần đột quỵ khác. Nguy cơ cao này kéo dài xấp xỉ năm năm và giảm dần theo thời gian; nguy cơ cao nhất là trong vòng vài tháng đầu tiên. Bên cạnh chú ý tới những yếu tố nguy cơ đột quỵ có thể kiểm soát được, những người trải qua đột quỵ có thể hưởng lợi từ thuốc kê đơn để giảm nguy cơ đột quỵ của mình.
Cơn thiếu máu não thoáng qua: Bị một cơn thiếu máu não thoáng qua (TIA) làm tăng nguy cơ bị đột quỵ lớn trong tháng, thường là trong hai ngày. Các thuốc, bao gồm aspirin có thể được kê để giúp ngăn ngừa cơn đột quỵ trong tương lai.
Bên cạnh các yếu tố nguy cơ trên, đột quỵ cũng có liên quan đến việc sử dụng rượu nhiều (đặc biệt là uống quá độ); sử dụng các thuốc trái luật như cocain và methamphetamin; tăng lượng hồng cầu; đau nửa đầu kèm hoa mắt (rối loạn thị giác); thuốc tránh thai và liệu pháp thay thế hormon với estrogen. Chưa có chứng minh nào chỉ ra có mối quan hệ trực tiếp giữa căng thẳng và nguy cơ đột quỵ. Cũng như với nhiều tình trạng, tập luyện tối thiểu 30 phút mỗi ngày trong tuần làm giảm nguy cơ đột quỵ.

6. Điều trị
Một trong những nguyên nhân cho sự khẩn cấp của việc đánh giá các dấu hiệu cảnh báo đột quỵ là các nhà nghiên cứu đã phát hiên ra rằng tổn thương não do đột quỵ có thể lan ra ngoài khu vực bị ảnh hưởng bởi đột quỵ và có thể trở nên nặng hơn trong vòng 24 giờ đầu tiên. Việc tìm cách hạn chế hoặc phòng ngừa tổn thương thứ phát này bằng các loại thuốc riêng trong vòng một vài giờ đầu tiên sau đột quỵ nếu phù hợp là điều vô cùng quan trọng.

Khi đột quỵ xảy ra, nhập viện là cần thiết để xác định nguyên nhân và loại đột quỵ và để điều trị hoặc ngăn ngừa các biến chứng tiếp theo. Có thể cần điều trị bằng phẫu thuật cũng như bằng thuốc.

Giai đoạn phục hồi chức năng bắt đầu. Phục hồi chức năng không chữa được đột quỵ. Thay vào đó, nó tập trung vào việc giảm thiểu tổn thương vĩnh viễn và tăng cường thích nghi. Phục hồi chức năng có thể bao gồm việc tập luyện tích cực các lĩnh vực khác nhau bao gồm chuyển động, thăng bằng, nhận thức về không gian và cơ thể, kiểm soát ruột/bàng quang, ngôn ngữ và các phương pháp mới về thích nghi tâm lý và cảm xúc. Chương trình phục hồi chức năng sau đột quỵ bao gồm các nỗ lực phối hợp của nhiều chuyên gia y tế.

Xấp xỉ 80% số người sống sót sau đột quỵ bị ảnh hưởng về thể chất, nhận thức và ngôn ngữ mà có thể được giúp đỡ thông qua phục hồi chức năng.

7. Hậu quả sau đột quỵ
Phục hồi sau đột quỵ khác nhau: một số người có thể phục hồi hoàn toàn trong khi những người khác sẽ bị khuyết tật nhẹ, trung bình hoặc nghiêm trọng. Phục hồi nhanh nhất xảy ra trong vòng 30 ngày đầu tiên sau đột quỵ. Hậu quả cụ thể trên một người sống sót sau đột quỵ sẽ phụ thuộc vào vị trí và phạm vi của đột quỵ và việc người đó đã được điều trị nhanh như thế nào. Đột quỵ xảy ra ở bán cầu não trái có thể ảnh hưởng đến giao tiếp và trí nhớ, cũng như vận động ở phần cơ thể bên phải. Đột quỵ xảy ra ở bán cầu não phải có thể ảnh hưởng đến các khả năng không gian và nhận thức, cũng như vận động ở phần cơ thể bên trái.

Tê liệt hoặc yếu: Thường là ở một bên cơ thể, bao gồm cả mặt và miệng. Bệnh nhân có thể bị khó nuốt hoặc bị bỏ mặc một bên (lờ hoặc quên mất phần cơ thể bị ảnh hưởng).
Vấn đề thị giác: Bệnh nhân có thể không tập trung nhìn được, có thể có điểm mù hoặc có vấn đề với tầm nhìn ngoại vi.
Khó khăn trong giao tiếp: Mất ngôn ngữ là khái niệm được dùng để mô tả tập hợp sự thiếu hụt về giao tiếp, bao gồm gặp vấn đề khi nói, hiểu, đọc và viết.
Rối loạn cảm xúc: Biểu hiện không kiểm soát, không lý giải được của hành động khóc, tức giận hoặc cười mà có thể ít có liên hệ đến trạng thái cảm xúc hiện tại của bệnh nhân. Những biểu hiện này thường đến và đi nhanh chóng và có thể giảm dần theo thời gian.
Trầm cảm: Lo âu (đặc biệt là về khả năng gặp một cơn đột quỵ khác) và trầm cảm không phải là hiếm gặp sau đột quỵ, và có thể có nguyên nhân sinh lý và tâm lý. Có thể dùng thuốc để giảm nhẹ những triệu chứng này.
(nguồn: caregiver.com)

Bình luận (1)
tran-khiem
Trần Khiêm
27 May 2020
Bố mình bị đột quỵ nhồi máu não, giờ có biện pháp gì để phòng ngừa không? Vui lòng tư vấn thêm cho mình
Viết bình luận